Chào mừng quý vị đến với website của ...
Quý vị chưa đăng nhập hoặc chưa đăng ký làm thành viên, vì vậy chưa thể tải được các tài liệu của Thư viện về máy tính của mình.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
Bài 13. Việt Nam và Biển Đông
(Tài liệu chưa được thẩm định)
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 16h:32' 27-06-2024
Dung lượng: 783.6 KB
Số lượt tải: 0
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 16h:32' 27-06-2024
Dung lượng: 783.6 KB
Số lượt tải: 0
Số lượt thích:
0 người
BÀI 13: VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 13: VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
Mục tiêu bài học
Mục tiêu bài học
Ảnh
* Nếu được tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh, về phát triển ngành kinh tế trọng điểm. * Nếu được Việt Nam là Nhà nước đầu tiền xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong lịch sử. • Trình bày được nét chinh về cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. * Nếu được chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình. * Trần trọng những thành quả đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông trong lịch sử, sẵn sàng tham gia đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước Việt Nam.
Mục tiêu bài học
1. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam
a) Về quốc phòng, an ninh
Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía (đông, nam và tây nam) và có đường bờ biển dài khoảng 3 260 km, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang. Đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
a) Về quốc phòng, an ninh
Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo, quần đảo của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền.
Một góc đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) – “vọng gác tiền tiêu” của Việt Nam ở phía nam vịnh Bắc Bộ
Ảnh
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
?
Trình bày tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh.
Biển Đông có vai trò quan trọng đối với Việt Nam trên phương diện an ninh - quốc phòng. Điều này được thể hiện ở việc: + Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. + Hệ thống các đảo và quần đảo trên của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền.
b) Về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm
- Vị trí địa lí và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, sửa chữa và đóng tàu, du lịch,... - Trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam có khả năng khai thác hằng năm đạt khoảng 2,3 triệu tấn. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỉ mỉ khí. - Vùng ven biển Việt Nam còn có tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như: ti-tan, thiếc, vàng, sắt, man-gan, đất hiếm,... trong đó, cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. - Đường bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên đẹp như Hạ Long, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,... tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành một “điểm du lịch hấp dẫn”. Dọc bờ biển có thể xây dựng các cảng biển nước sâu.
Dẫn chứng
Ảnh
Đông là “cửa ngõ” để Việt Nam giao lưu kinh tế và hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hàng hoá xuất – nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Một góc đảo Phú Quốc (Kiên Giang)
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Nêu tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về phát triển các ngành kinh tế.
?
-Vị trí của Biển Đông tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế biển với nhiều ngành đa dạng như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản... - Biển Đông có số lượng hải sản phong phú, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào như mở thiếc, sắt,... đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt. - Đường bờ biển dài vời nhiều bãi cát, vịnh... đẹp thích hợp phát triển du lịch. Môt số khu vực có nước sâu có thể xây dựng các cảng biển như cành Dung Quất, Cam Ranh... - Biển Đông là "cửa ngõ" để Việt Nam giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới.
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
?
Liên hệ với địa phương em hoặc địa phương mà em biết (tỉnh/ thành phố), chỉ ra một số vai trò của biển đối với việc phát triển kinh tế.
Biển tạo điều kiện cho ngành kinh tế mũi nhọn phát triển là ngành thuỷ sản, đóng tàu, dầu khí, giao thông hàng hải, du lịch,...Trong đó: - Với ngành giao thông vận tải thì biển Đông tạo điều kiện xây dựng những cảng biển lớn để vận chuyển hàng hoá trong đó có 10 địa điểm xây dựng được cảng biển nước sâu và nhiều cảng biển nhỏ khác. Từ phát triển cảng sẽ kéo theo các ngành về đóng tàu phát triển. - Biển mang lại cho người dân tài nguyên về thuỷ sản đa dạng phong phú, giúp nước ta phát triển kinh tế ngành thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn với vị trí đứng thứ 3 về ngành xuất khẩu của cả nước. - Biển nước ta có trữ lượng tài nguyên về dầu khí lớn. Tài nguyên này giúp cho ngành dầu khí phát triển. - Đường bờ biển dài và nhiều bãi biển đẹp đã giúp cho nhân ta phát triển ngành du lịch biển.
2. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
a) Quá trình Việt Nam xác lập chủ quyền và quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Các bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh rằng ngay từ đầu Công nguyên, người Việt đã tích cực, chủ động và sớm có hoạt động kinh tế và văn hoá ở Biển Đông. Cùng với những nguồn sử liệu tin cậy, có giá trị pháp lí cao của Việt Nam và nước ngoài (văn bản hành chính, tư liệu lịch sử,...) qua các thời kì đã khẳng định Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. • Trước năm 1884 Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như: Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ niên bình Nam đô (1774), Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838),... và của người phương Tây như: Bộ Át lát thế giới (1827), An Nam đại quốc hoạ đồ (1838),... đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Bản đồ
Ảnh
Đại Nam thống nhất toàn đồ ( 1838 )
Một số công trình
- Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam cũng ghi chép tường tận về cương vực lãnh thổ, những hoạt động thực thi, bảo vệ chủ quyền của các chính quyền chúa Nguyễn, vua Lê – chúa Trịnh, Triều Tây Sơn và Triều Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa như: Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí,.. - Dưới thời vua Gia Long, triều đình đã tiến hành các hoạt động khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa một cách quy củ như tổ chức đội thuỷ quân chuyên trách thực thi chủ quyền ở đây.
Duới thời Minh Mạng
- Đến thời vua Minh Mạng, việc cử thuỷ quân ra quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã trở thành lệ đều đặn hằng năm. Nhà vua cũng coi việc vẽ bản đồ hai quần đảo này là trọng trách của Nhà nước, lệnh cho cắm dấu mốc tại nơi khảo sát và thực hiện cứu nạn, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền qua lại khu vực Biển Đông,... Năm 1835, vua Minh Mạng cho người dựng miếu và trồng cây ở một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. - Việc tổ chức đơn vị hành chính của quần đảo Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước lúc bấy giờ cũng được thực hiện. Thời chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi). Thời nhà Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
• Từ năm 1884 đến năm 1975
- Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của Triều Nguyễn) tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế. - Năm 1909, người Pháp đã nêu rõ các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là trái phép. - Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa và quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. - Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học....
Hiệp định Giơ - ne - vơ ( 1954 )
- Đến tháng 9 – 1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không bị các quốc gia tham dự hội nghị phản đối. - Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản lí hành chính của các chính quyền ở miền Nam Việt Nam. - Từ giữa tháng 4 – 1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã triển khai lực lượng thực thi chủ quyển đối với quần đảo Trường Sa.
Ảnh
Cột hải đăng trên đảo Hoàng Sa đuợc nguời Pháp xây dựng năm 1937
• Từ sau năm 1975 đến nay
- Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lí và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập. - Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai (từ tháng 7 – 1989 thuộc tỉnh Khánh Hoà) được thành lập. - Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như: thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận), xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận),...
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Các tư liệu 1, 2 cung cấp cho em thông tin gì về hoạt động xác lập, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa?
?
Trả lời
♦ Đoạn tư liệu 1: - Nội dung chủ đạo là: trong các thế kỉ XVII - XIX, Việt Nam đã thực hiện các hoạt động xác lập chủ quyền, quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, thông qua việc thành lập và hoạt động của các hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải. - Đoạn tư liệu cho ta một số hiểu biết về hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải: + Hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải là hai tổ chức dân binh độc đáo, vừa có chức năng kinh tế (khai thác tài nguyên biển) vừa có chức năng kiểm soát, quản lí biển, đảo. Nhiệm vụ của họ là: (1) khai thác các sản vật quý; (2) thu lượm hàng hóa từ những con tàu bị đắm; (3) bảo vệ chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. + Hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải được tiến hành đều đặn, thường xuyên từ tháng 2 đến tháng 8 hằng năm. ♦ Đoạn tư liệu 2: cho cúng ta biết thông tin: trong những năm 1884 - 1945, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn) đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Trình bày khái quát quá trình xác lập chủ quyền và quản lí liên tục của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong lịch sử
?
*Trước năm 1884 - Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ bình Nam đồ (1774)... đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. - Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam như Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí.......đều thể hiện chủ quyền của Việt Nam với các quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa - Việc thành lập và hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX đã xác lập chủ quyền, quản lí liên tục mang tính nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. - Từ thời Nguyễn việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước đã được thực hiện.
Trả lời
♦ Từ năm 1884 đến năm 1975 - Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lý và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế. - Năm 1909, người Pháp nêu rõ các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là trái phép. - Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học.... ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. - Đến tháng 9/1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố và công nhận tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không bị các quốc gia tham dự hội nghị phản đối.
Trả lời
- Từ năm 1954 đến năm 1975, hai quần đảo được đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Sài Gòn. + Chính quyền Sài Gòn đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thông qua việc ban hành các văn bản hành chính nhà nước, cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính. + Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa - vũng Tàu ngày nay). - Từ ngày 13 đến ngày 28/4/1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo và triển khai lực lượng thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Trả lời
♦ Từ sau năm 1975 đến nay - Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. - Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập. + Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa được thành lập. + Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa Lớn và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận); xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận)...
b) Cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh kiên quyết nhằm bảo vệ, thực thi chủ quyền biển đảo, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ảnh
Đài tuởng niệm chiến sĩ Gạp Ma ( Khánh Hoà )
Sơ đồ
Ảnh
Sơ đồ khái quát về cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của biển đảo Việt Nam
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Trình bày nét chính về cuộc đấu tranh bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
?
- Trước năm 1884: + Dưới triều Nguyễn, các đội thủy quân chuyên trách công việc bảo vệ, thực thi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa được tổ chức. + Từ thời chúa Nguyễn, Vương triều Tây Sơn, các đội Hoàng Sam Bắc Hải có nhiệm vụ tuẫn tiễu giữ gìn vùng biển, ứng chiến với nạn cướp biển và những xâm phạm tại quần đảo Hoàng Sa,... - Từ năm 1884 đến năm 1954: Năm 1946, chính quyền thực dân Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các quần đảo đã chiếm đóng trái phép.
Trả lời
Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. - Từ năm 1954 đến năm 1975: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Tháng 1 – 1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. - Từ sau năm 1975 đến nay: Từ tháng 3 – 1988 đến nay, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lí để khẳng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông. Tháng 3 – 1988, nhiều chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã hi sinh anh dũng khi chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
3. Chủ trương của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
Dẫn chứng
Ảnh
Nhà nước Việt Nam thực hiện các biện pháp toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự nhằm bảo vệ quyền, chủ quyền và các lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Đối với các tranh chấp chủ quyền, Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông thông qua biện pháp hoà bình với tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế.
Lễ kí kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tại Cam-pu-chia (2002)
Luật pháp quốc tế
•Ban hành văn bản pháp luật khẳng định chủ quyền: - Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam (5 - 1977). - Các Sách trắng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo luật pháp quốc tế (9 – 1979, 12 – 1981, 4 – 1988,...). - Luật Biên giới quốc gia (6 – 2003). - Bộ luật Hàng hải Việt Nam (6 – 2005, 11 – 2015). • Tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Theo Công ước về Luật Biển UNCLOS, Việt Nam là quốc gia ven biển có các vùng biển và thềm lục địa để thăm dò và khai thác với diện tích khoảng 1 triệu ki-lô-mét vuông, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền. • Thông qua Luật Biển Việt Nam năm 2012. • Thúc đẩy và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Chủ quyền biển đảo
Ảnh
Đồng thời, để tăng cường tiềm lực quốc gia phục vụ hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo, Việt Nam thực hiện phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.
Tàu hộ vệ tên lửa 016 Quang Trung – chiến hạm của Hải quân Nhân dân Việt Nam
Luyện tập
Bài 1
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam có bao nhiêu tỉnh, thành giáp biển?
18
28
48
63
Bài 2
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam không giáp Biển Đông ở phía nào?
Đông
Nam
Tây Nam
Tây Bắc
Bài 3
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng?
3260
3289
3470
4738
Bài 4
Bài tập trắc nghiệm
Vùng biển nước ta giàu tài nguyên sinh vật biển là do
Thềm lục địa nông, độ mặn nước biển lớn
Nước biển ấm, nhiều ánh sáng, giàu ô xi.
Có nhiều vũng vịnh, đầm phá
Có các dòng hải lưu
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 13: VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
Mục tiêu bài học
Mục tiêu bài học
Ảnh
* Nếu được tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh, về phát triển ngành kinh tế trọng điểm. * Nếu được Việt Nam là Nhà nước đầu tiền xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong lịch sử. • Trình bày được nét chinh về cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. * Nếu được chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình. * Trần trọng những thành quả đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông trong lịch sử, sẵn sàng tham gia đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước Việt Nam.
Mục tiêu bài học
1. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam
a) Về quốc phòng, an ninh
Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía (đông, nam và tây nam) và có đường bờ biển dài khoảng 3 260 km, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang. Đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
a) Về quốc phòng, an ninh
Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo, quần đảo của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền.
Một góc đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) – “vọng gác tiền tiêu” của Việt Nam ở phía nam vịnh Bắc Bộ
Ảnh
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
?
Trình bày tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh.
Biển Đông có vai trò quan trọng đối với Việt Nam trên phương diện an ninh - quốc phòng. Điều này được thể hiện ở việc: + Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. + Hệ thống các đảo và quần đảo trên của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền.
b) Về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm
- Vị trí địa lí và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, sửa chữa và đóng tàu, du lịch,... - Trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam có khả năng khai thác hằng năm đạt khoảng 2,3 triệu tấn. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỉ mỉ khí. - Vùng ven biển Việt Nam còn có tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như: ti-tan, thiếc, vàng, sắt, man-gan, đất hiếm,... trong đó, cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. - Đường bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên đẹp như Hạ Long, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,... tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành một “điểm du lịch hấp dẫn”. Dọc bờ biển có thể xây dựng các cảng biển nước sâu.
Dẫn chứng
Ảnh
Đông là “cửa ngõ” để Việt Nam giao lưu kinh tế và hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hàng hoá xuất – nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Một góc đảo Phú Quốc (Kiên Giang)
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Nêu tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về phát triển các ngành kinh tế.
?
-Vị trí của Biển Đông tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế biển với nhiều ngành đa dạng như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản... - Biển Đông có số lượng hải sản phong phú, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào như mở thiếc, sắt,... đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt. - Đường bờ biển dài vời nhiều bãi cát, vịnh... đẹp thích hợp phát triển du lịch. Môt số khu vực có nước sâu có thể xây dựng các cảng biển như cành Dung Quất, Cam Ranh... - Biển Đông là "cửa ngõ" để Việt Nam giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới.
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
?
Liên hệ với địa phương em hoặc địa phương mà em biết (tỉnh/ thành phố), chỉ ra một số vai trò của biển đối với việc phát triển kinh tế.
Biển tạo điều kiện cho ngành kinh tế mũi nhọn phát triển là ngành thuỷ sản, đóng tàu, dầu khí, giao thông hàng hải, du lịch,...Trong đó: - Với ngành giao thông vận tải thì biển Đông tạo điều kiện xây dựng những cảng biển lớn để vận chuyển hàng hoá trong đó có 10 địa điểm xây dựng được cảng biển nước sâu và nhiều cảng biển nhỏ khác. Từ phát triển cảng sẽ kéo theo các ngành về đóng tàu phát triển. - Biển mang lại cho người dân tài nguyên về thuỷ sản đa dạng phong phú, giúp nước ta phát triển kinh tế ngành thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn với vị trí đứng thứ 3 về ngành xuất khẩu của cả nước. - Biển nước ta có trữ lượng tài nguyên về dầu khí lớn. Tài nguyên này giúp cho ngành dầu khí phát triển. - Đường bờ biển dài và nhiều bãi biển đẹp đã giúp cho nhân ta phát triển ngành du lịch biển.
2. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
a) Quá trình Việt Nam xác lập chủ quyền và quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Các bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh rằng ngay từ đầu Công nguyên, người Việt đã tích cực, chủ động và sớm có hoạt động kinh tế và văn hoá ở Biển Đông. Cùng với những nguồn sử liệu tin cậy, có giá trị pháp lí cao của Việt Nam và nước ngoài (văn bản hành chính, tư liệu lịch sử,...) qua các thời kì đã khẳng định Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. • Trước năm 1884 Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như: Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ niên bình Nam đô (1774), Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838),... và của người phương Tây như: Bộ Át lát thế giới (1827), An Nam đại quốc hoạ đồ (1838),... đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Bản đồ
Ảnh
Đại Nam thống nhất toàn đồ ( 1838 )
Một số công trình
- Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam cũng ghi chép tường tận về cương vực lãnh thổ, những hoạt động thực thi, bảo vệ chủ quyền của các chính quyền chúa Nguyễn, vua Lê – chúa Trịnh, Triều Tây Sơn và Triều Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa như: Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí,.. - Dưới thời vua Gia Long, triều đình đã tiến hành các hoạt động khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa một cách quy củ như tổ chức đội thuỷ quân chuyên trách thực thi chủ quyền ở đây.
Duới thời Minh Mạng
- Đến thời vua Minh Mạng, việc cử thuỷ quân ra quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã trở thành lệ đều đặn hằng năm. Nhà vua cũng coi việc vẽ bản đồ hai quần đảo này là trọng trách của Nhà nước, lệnh cho cắm dấu mốc tại nơi khảo sát và thực hiện cứu nạn, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền qua lại khu vực Biển Đông,... Năm 1835, vua Minh Mạng cho người dựng miếu và trồng cây ở một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. - Việc tổ chức đơn vị hành chính của quần đảo Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước lúc bấy giờ cũng được thực hiện. Thời chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi). Thời nhà Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
• Từ năm 1884 đến năm 1975
- Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của Triều Nguyễn) tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế. - Năm 1909, người Pháp đã nêu rõ các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là trái phép. - Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa và quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. - Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học....
Hiệp định Giơ - ne - vơ ( 1954 )
- Đến tháng 9 – 1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không bị các quốc gia tham dự hội nghị phản đối. - Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản lí hành chính của các chính quyền ở miền Nam Việt Nam. - Từ giữa tháng 4 – 1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã triển khai lực lượng thực thi chủ quyển đối với quần đảo Trường Sa.
Ảnh
Cột hải đăng trên đảo Hoàng Sa đuợc nguời Pháp xây dựng năm 1937
• Từ sau năm 1975 đến nay
- Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lí và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập. - Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai (từ tháng 7 – 1989 thuộc tỉnh Khánh Hoà) được thành lập. - Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như: thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận), xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận),...
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Các tư liệu 1, 2 cung cấp cho em thông tin gì về hoạt động xác lập, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa?
?
Trả lời
♦ Đoạn tư liệu 1: - Nội dung chủ đạo là: trong các thế kỉ XVII - XIX, Việt Nam đã thực hiện các hoạt động xác lập chủ quyền, quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, thông qua việc thành lập và hoạt động của các hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải. - Đoạn tư liệu cho ta một số hiểu biết về hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải: + Hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải là hai tổ chức dân binh độc đáo, vừa có chức năng kinh tế (khai thác tài nguyên biển) vừa có chức năng kiểm soát, quản lí biển, đảo. Nhiệm vụ của họ là: (1) khai thác các sản vật quý; (2) thu lượm hàng hóa từ những con tàu bị đắm; (3) bảo vệ chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. + Hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải được tiến hành đều đặn, thường xuyên từ tháng 2 đến tháng 8 hằng năm. ♦ Đoạn tư liệu 2: cho cúng ta biết thông tin: trong những năm 1884 - 1945, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn) đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Trình bày khái quát quá trình xác lập chủ quyền và quản lí liên tục của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong lịch sử
?
*Trước năm 1884 - Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ bình Nam đồ (1774)... đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. - Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam như Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí.......đều thể hiện chủ quyền của Việt Nam với các quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa - Việc thành lập và hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX đã xác lập chủ quyền, quản lí liên tục mang tính nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. - Từ thời Nguyễn việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước đã được thực hiện.
Trả lời
♦ Từ năm 1884 đến năm 1975 - Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lý và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế. - Năm 1909, người Pháp nêu rõ các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là trái phép. - Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học.... ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. - Đến tháng 9/1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố và công nhận tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không bị các quốc gia tham dự hội nghị phản đối.
Trả lời
- Từ năm 1954 đến năm 1975, hai quần đảo được đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Sài Gòn. + Chính quyền Sài Gòn đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thông qua việc ban hành các văn bản hành chính nhà nước, cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính. + Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa - vũng Tàu ngày nay). - Từ ngày 13 đến ngày 28/4/1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo và triển khai lực lượng thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Trả lời
♦ Từ sau năm 1975 đến nay - Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. - Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập. + Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa được thành lập. + Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa Lớn và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận); xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận)...
b) Cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh kiên quyết nhằm bảo vệ, thực thi chủ quyền biển đảo, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ảnh
Đài tuởng niệm chiến sĩ Gạp Ma ( Khánh Hoà )
Sơ đồ
Ảnh
Sơ đồ khái quát về cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của biển đảo Việt Nam
Câu hỏi
Hình vẽ
Hình vẽ
Trình bày nét chính về cuộc đấu tranh bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
?
- Trước năm 1884: + Dưới triều Nguyễn, các đội thủy quân chuyên trách công việc bảo vệ, thực thi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa được tổ chức. + Từ thời chúa Nguyễn, Vương triều Tây Sơn, các đội Hoàng Sam Bắc Hải có nhiệm vụ tuẫn tiễu giữ gìn vùng biển, ứng chiến với nạn cướp biển và những xâm phạm tại quần đảo Hoàng Sa,... - Từ năm 1884 đến năm 1954: Năm 1946, chính quyền thực dân Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các quần đảo đã chiếm đóng trái phép.
Trả lời
Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. - Từ năm 1954 đến năm 1975: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Tháng 1 – 1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. - Từ sau năm 1975 đến nay: Từ tháng 3 – 1988 đến nay, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lí để khẳng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông. Tháng 3 – 1988, nhiều chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã hi sinh anh dũng khi chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
3. Chủ trương của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
Dẫn chứng
Ảnh
Nhà nước Việt Nam thực hiện các biện pháp toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự nhằm bảo vệ quyền, chủ quyền và các lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Đối với các tranh chấp chủ quyền, Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông thông qua biện pháp hoà bình với tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế.
Lễ kí kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tại Cam-pu-chia (2002)
Luật pháp quốc tế
•Ban hành văn bản pháp luật khẳng định chủ quyền: - Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam (5 - 1977). - Các Sách trắng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo luật pháp quốc tế (9 – 1979, 12 – 1981, 4 – 1988,...). - Luật Biên giới quốc gia (6 – 2003). - Bộ luật Hàng hải Việt Nam (6 – 2005, 11 – 2015). • Tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Theo Công ước về Luật Biển UNCLOS, Việt Nam là quốc gia ven biển có các vùng biển và thềm lục địa để thăm dò và khai thác với diện tích khoảng 1 triệu ki-lô-mét vuông, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền. • Thông qua Luật Biển Việt Nam năm 2012. • Thúc đẩy và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Chủ quyền biển đảo
Ảnh
Đồng thời, để tăng cường tiềm lực quốc gia phục vụ hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo, Việt Nam thực hiện phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.
Tàu hộ vệ tên lửa 016 Quang Trung – chiến hạm của Hải quân Nhân dân Việt Nam
Luyện tập
Bài 1
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam có bao nhiêu tỉnh, thành giáp biển?
18
28
48
63
Bài 2
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam không giáp Biển Đông ở phía nào?
Đông
Nam
Tây Nam
Tây Bắc
Bài 3
Bài tập trắc nghiệm
Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng?
3260
3289
3470
4738
Bài 4
Bài tập trắc nghiệm
Vùng biển nước ta giàu tài nguyên sinh vật biển là do
Thềm lục địa nông, độ mặn nước biển lớn
Nước biển ấm, nhiều ánh sáng, giàu ô xi.
Có nhiều vũng vịnh, đầm phá
Có các dòng hải lưu
 
↓ CHÚ Ý: Bài giảng này được nén lại dưới dạng ZIP và có thể chứa nhiều file. Hệ thống chỉ hiển thị 1 file trong số đó, đề nghị các thầy cô KIỂM TRA KỸ TRƯỚC KHI NHẬN XÉT ↓
Các ý kiến mới nhất