Chào mừng quý vị đến với website của ...
Quý vị chưa đăng nhập hoặc chưa đăng ký làm thành viên, vì vậy chưa thể tải được các tài liệu của Thư viện về máy tính của mình.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
CTST - Bài 8. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
(Tài liệu chưa được thẩm định)
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 15h:54' 28-03-2025
Dung lượng: 1.6 MB
Số lượt tải: 0
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 15h:54' 28-03-2025
Dung lượng: 1.6 MB
Số lượt tải: 0
Số lượt thích:
0 người
Bài 8. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)
Ảnh
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 8. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
1. Bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Bối cảnh lịch sử.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kĩ thuật. - Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ dâng cao ở các nước tư bản. - Chiến tranh lạnh đã lôi kéo các nước vào cuộc chạy đua vũ trang và đối đầu giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Quan hệ giữa các nước lớn có nhiều diễn biến phức tạp. Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đẩy mạnh thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm làm bá chủ thế giới. - Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc hòa bình và đi lên chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, Mỹ thay chân Pháp, dựng lên Chính quyền Ngô Đình Diệm (Chính quyền Sài Gòn), thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
2. Các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
a) Giai đoạn 1954 - 1960.
a) Giai đoạn 1954 - 1960.
- Sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất trong những năm 1954 - 1956, thực hiện "Người cày có ruộng". Công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh được triển khai trong tất cả các ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,...). Đến cuối năm 1957, nhiều công trình thủy nông được xây dựng; nhà nước quản lí 97 nhà máy, xí nghiệp lớn; đặt quan hệ thương mại với 27 nước. - Từ năm 1958 đến năm 1960, miền Bắc tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền để cho quá trình phát triển trong giai đoạn tiếp theo, đưa miền Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. - Ở miền Nam, từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân đấu tranh chính trị chống Mỹ -Diệm đòi thi hành Hiệp định, đòi các quyền tự do dân chủ, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng.
* Giai đoạn 1954 - 1960.
- Nghị quyết 15 của Đảng Lao động Việt Nam (1959) quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đứng lên khởi nghĩa. Phong trào bắt đầu từ các cuộc nổi dậy của nhân dân ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận) vào tháng 02 - 1959, Trà Bồng (Quảng Ngãi) vào tháng 8 - 1959, rồi lan khắp miền Nam thành phong trào cách mạng rộng lớn, tiêu biểu là cuộc Đồng khởi ở Bến Tre tháng 01 - 1960. - Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ, làm lung lay Chính quyền Ngô Đình Diệm, đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đưa đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20 - 12 - 1960), thúc đẩy lực lượng vũ trang cách mạng phát triển.
Ảnh
b) Giai đoạn 1961 - 1965
b) Giai đoạn 1961 - 1965.
- Tháng 9 - 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và cách mạng từng miền; vị trí, vai trò của cách mạng từng miền; mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Nam - Bắc. - Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Nhiệm vụ cơ bản là phát triển công nghiệp, nông nghiệp, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh. Đến năm 1964, miền Bắc đã "tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới". Miền Bắc là hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Trong những năm 1964 - 1965, số lượng bộ đội bổ sung cho chiến trường miền Nam tăng hơn 2 lần so với 2 năm trước đó.
* Giai đoạn 1961 - 1965
- Quân dân miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965) - một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn, dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ. Thực chất của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" là "dùng người Việt đánh người Việt", tiến hành dồn dân lập "ấp chiến lược", sử dụng chiến thuật mới "trực thăng vận", "thiết xa vận". - Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, quân dân miền Nam chiến đấu chống Mỹ và Chính quyền Sài Gòn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, đô thị) bằng 3 mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận), giành được nhiều thắng lợi quan trọng.
* Giai đoạn 1961 - 1965
- Trên mặt trận chính trị, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng dâng cao, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của các tín đồ Phật giáo, đội quân tóc dài, học sinh - sinh viên đẩy Chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên. - Trên mặt trận chống bình định, ở nông thôn, phong trào chống phá bình định ngày càng phát triển đã từng bước làm phá sản quốc sách "ấp chiến lược" của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn. - Trên mặt trận quân sự, quân và dân miền Nam giành thắng lợi ở trận Ấp Bắc (Mỹ Tho, tháng 01 - 1963) bước đầu đánh bại chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận", mở ra khả năng đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Từ đây, phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công" dấy lên khắp miền Nam. Trong những năm 1964 - 1965, quân dân ta giành những thắng lợi ở Bình Giã (Bà Rịa), An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước),... gây cho quân đội Sài Gòn những thiệt hại nặng, có nguy cơ tan rã, làm phá sản hoàn toàn chiến lược "Chiến tranh đặc biệt".
c) Giai đoạn 1965 - 1968
c) Giai đoạn 1965 - 1968.
- Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Mỹ, quân đội một số nước đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đê thực hiện chiến lược này, quân đội Mỹ mở nhiều cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" vào căn cứ của quân Giải phóng ở miền Nam. - Quân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu, giành những thắng lợi trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao. - Trên mặt trận chính trị, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đấu tranh phá vỡ nhiều "ấp chiến lược" trong vùng nông thôn. Ở thành thị, phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, sinh viên đòi Mỹ rút về nước, đòi tự do dân chủ phát triển mạnh mẽ. Vùng giải phóng được mở rộng, vị thế và uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
* Giai đoạn 1965 - 1968
- Trên mặt trận quân sự, quân dân miền Nam anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam, tháng 5 - 1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi, tháng 8 - 1965), mở ra khả năng đánh thắng Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Tiếp đó, quân dân miền Nam đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) của Mỹ. - Đầu năm 1968, quân dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là các đồ thị, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mỹ phải "phi Mỹ hoá" cuộc chiến tranh (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ”). - Ở miền Bắc, Mỹ dựng lên sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá hậu phương miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam, uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
* Giai đoạn 1965 - 1968
- Quân dân miền Bắc kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và thực hiện nghĩa vụ hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. - Thắng lợi của quân và dân hai miền Nam - Bắc trên các mặt trận đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pa-ri (tháng 5 - 1968) để giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Ảnh
Ảnh
d) Giai đoạn 1969 - 1973
d) Giai đoạn 1969 - 1973.
- Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", Mỹ chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam (1969 - 1973) và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" là hình thức chiến tranh thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy. Mỹ tăng cường lực lượng cho quân đội Sài Gòn thực hiện chính sách bình định nông thôn ở miền Nam; đồng thời, hỗ trợ quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân sang Cam-pu-chia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971). Năm 1972, Mỹ còn thực hiện thủ đoạn ngoại giao lợi dụng mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc, thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. - Quân và dân trên cả hai miền Nam - Bắc chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và giành nhiều thắng lợi lớn trên các mặt trận.
* Giai đoạn 1969 - 1973
- Trên mặt trận chính trị, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập (06 - 6 - 1969), là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ; Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương họp (4 - 1970), biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mỹ. - Trên mặt trận quân sự, quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp cùng với quân và dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược của 10 vạn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn sang Cam-pu-chia (1970); phối hợp với quân và dân Lào đập tan cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của 4,5 vạn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, buộc Mỹ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 - Nam Lào (1971); từ đó, giữ vững hành lang chi viện từ hậu phương miền Bắc cho các chiến trường của ba nước Đông Dương. - Xuân - Hè 1972, quân và dân miền Nam mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào ba phòng tuyến mạnh nhất của quân đội Sài Gòn ở Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mỹ tuyên bố Mỹ hoá" trở lại (tức thừa nhân sự thất bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh").
* Giai đoạn 1969 - 1973
- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện miền Nam. Tháng 4 -1972, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Quân dân miền Bắc chủ động, kịp thời đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. - Cuối năm 1972, Mỹ tiến hành cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, trong 12 ngày đêm (từ ngày 18 đến ngày 29 - 12 - 1972) nhằm giành một thắng lợi quân sự quyết định buộc ta kí hiệp định có lợi cho Mỹ. Quân và dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mỹ những đòn đích đáng, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng đường không bằng B52 của Mỹ; thắng lợi này được coi như trận "Điện Biên Phủ trên không". Trận "Điện Biên Phủ trên không" là thắng lợi quyết định của ta, buộc Mỹ phải ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc và kí Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. - Trên mặt trận ngoại giao, cuộc đàm phán bốn bên ở Pa-ri từ tháng 01 - 1969 đến đầu năm 1973 đã kết thúc thắng lợi. Ngày 27 - 01 - 1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ki kết, mở ra thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
e) Giai đoạn 1973 - 1975
e) Giai đoạn 1973 - 1975.
- Với Hiệp định Pa-ri, Mỹ buộc phải rút quân về nước; so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng. - Miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam. Trong 2 năm (1973 - 1974), gần 20 vạn bộ đội cùng hàng vạn tấn vật chất từ miền Bắc được tăng cường cho miền Nam, đáp ứng kịp thời nhu cầu của chiến trường. - Ở miền Nam, Mỹ giữ lại hàng vạn cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ cho Chính quyển Sài Gòn tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", liên tiếp mở các cuộc hành quân "bình định - lấn chiếm" vùng giải phóng của ta. Thực chất là tiếp tục chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", phá hoại Hiệp định Pa-ri. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng Lao động Việt Nam, từ cuối năm 1973, quân dân miền Nam kiên quyết đấu tranh chống bình định lấn chiếm, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, quân dân miền Nam mở chiến dịch Đường 14- Phước Long. Chiến thắng Phước Long (1 - 1975) cho thấy sự lớn mạnh và khả năng thắng lớn của quân Giải phóng, sự suy yếu và bất lực của quân đội Sài Gòn, khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự của Mỹ là rất hạn chế.
* Giai đoạn 1973 - 1975
- Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình so sánh lực lượng thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị để ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975, 1976 và chỉ rõ "nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. - Từ tháng 3 - 1975, quân dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 chiến dịch lớn: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh. - Chiến dịch Tây Nguyên 04 -3 đến 24 - 3 - 1975: Quân Giải phóng giành thắng lợi trong trận then chốt Buôn Ma Thuột, khiến hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên sụp đổ. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ tiến công chiến lược sang tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
* Giai đoạn 1973 - 1975
- Chiến dịch Huế - Đà Nẵng 21 -3 đến 29 - 3 - 1975: Quân Giải phóng tiến công, giải phóng thành phố Huế, toàn tỉnh Thừa Thiên và thành phố Đà Nẵng, mở ra khả năng hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975). - Chiến dịch Huế - Đà Nẵng 21 -3 đến 29 - 3 - 1975: Quân Giải phóng tiến công, giải phóng thành phố Huế, toàn tỉnh Thừa Thiên và thành phố Đà Nẵng, mở ra khả năng hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975). - Đến ngày 02 -5 - 1975 toàn bộ miền Nam cùng các đảo và quần đảo hoàn toàn được giải phóng.
3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử
a) Nguyên nhân thắng lợi
a) Nguyên nhân thắng lợi.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ sáng tạo, tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhờ truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, đoàn kết một lòng của nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc. - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là do có hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc kháng chiến ở cả hai miền; quân đội nhân dân Việt Nam trưởng thành và phát huy nghệ thuật quân sự của cha ông trong kháng chiến cứu nước. - Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có sự phối hợp của nhân dân Lào, nhân dân Cam-pu-chia; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân tiến bộ trên thế giới.
b) Ý nghĩa lịch sử
b) Ý nghĩa lịch sử.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, thống nhất đất nước. - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã mở ra kỉ nguyên mới của Việt Nam: kỉ nguyên cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. - Thắng lợi của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mỹ và thế giới, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh.
4. Luyện tập và Vận dụng
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 1. Từ trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, tổ chức đoàn thể chính trị nào sau đây đã ra đời?
A. Liên minh Nhân dân Việt - Miên - Lào.
B. Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh).
C. Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
D. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 2. Phong trào “Đồng khởi” (1959-1960) ở miền Nam Việt Nam có ý nghĩa nào sau đây?
A. Giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam.
B. Tiếp tục giữ vững và phát huy thế chủ động tiến công của cách mạng miền Nam.
C. Bắt đầu chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ sang giai đoạn “vừa đánh vừa đàm”.
D. Buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Vận dụng
Câu hỏi: Sưu tầm tài liệu, giới thiệu với các bạn trong lớp về những tấm gương hi sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Kế tên những việc em đã tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa ở địa phương.
(*) Tham khảo: tấm gương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi. - Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi sinh ngày 01 tháng 02 năm 1940 tại làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 1954, khi tròn 14 tuổi, anh theo người thân vào Sài Gòn với mong muốn tìm việc làm. Khi đến Sài Gòn, chưa có nghề nghiệp, anh tạm thời đạp xích lô đưa đón khách cả ngày lẫn đêm. Sau đó anh học ngành điện và làm việc tại nhà máy điện Chợ Quán. Trong thời gian làm việc tại đây, hằng ngày chứng kiến bao tội ác của bọn Mỹ - Ngụy gây ra cho nhân dân, anh uất hận và ngày càng căm thù giặc sâu sắc. Từ đây anh đã chọn đường đi cho mình là tham gia cách mạng và trở thành chiến sĩ biệt động, thuộc đại đội quyết tử cánh Tây Nam Sài Gòn, thuộc quân khu Sài Gòn - Gia Định.
* vận dụng
(*) Tham khảo: Những việc em đã tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa ở địa phương. - Thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, thương binh, bệnh binh và Mẹ Việt Nam Anh hùng. - Dọn dẹp các nghĩa trang liệt sỹ; thắp nến tri ân tại các đài tưởng niệm. - Tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ để tuyên truyền và nâng cao nhận thức về truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. - Hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn.
5. Dặn dò và Cảm ơn
Dặn dò
Ảnh
Dặn dò:
Xem lại bài hôm nay đã học.
Làm đầy đủ bài tập trong sách.
Chuẩn bị cho tiết học tiếp theo.
Cảm ơn
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 8. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
1. Bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Bối cảnh lịch sử.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kĩ thuật. - Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ dâng cao ở các nước tư bản. - Chiến tranh lạnh đã lôi kéo các nước vào cuộc chạy đua vũ trang và đối đầu giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Quan hệ giữa các nước lớn có nhiều diễn biến phức tạp. Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đẩy mạnh thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm làm bá chủ thế giới. - Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc hòa bình và đi lên chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, Mỹ thay chân Pháp, dựng lên Chính quyền Ngô Đình Diệm (Chính quyền Sài Gòn), thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
2. Các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
a) Giai đoạn 1954 - 1960.
a) Giai đoạn 1954 - 1960.
- Sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất trong những năm 1954 - 1956, thực hiện "Người cày có ruộng". Công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh được triển khai trong tất cả các ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,...). Đến cuối năm 1957, nhiều công trình thủy nông được xây dựng; nhà nước quản lí 97 nhà máy, xí nghiệp lớn; đặt quan hệ thương mại với 27 nước. - Từ năm 1958 đến năm 1960, miền Bắc tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền để cho quá trình phát triển trong giai đoạn tiếp theo, đưa miền Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. - Ở miền Nam, từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân đấu tranh chính trị chống Mỹ -Diệm đòi thi hành Hiệp định, đòi các quyền tự do dân chủ, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng.
* Giai đoạn 1954 - 1960.
- Nghị quyết 15 của Đảng Lao động Việt Nam (1959) quyết định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng đứng lên khởi nghĩa. Phong trào bắt đầu từ các cuộc nổi dậy của nhân dân ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận) vào tháng 02 - 1959, Trà Bồng (Quảng Ngãi) vào tháng 8 - 1959, rồi lan khắp miền Nam thành phong trào cách mạng rộng lớn, tiêu biểu là cuộc Đồng khởi ở Bến Tre tháng 01 - 1960. - Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ, làm lung lay Chính quyền Ngô Đình Diệm, đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đưa đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20 - 12 - 1960), thúc đẩy lực lượng vũ trang cách mạng phát triển.
Ảnh
b) Giai đoạn 1961 - 1965
b) Giai đoạn 1961 - 1965.
- Tháng 9 - 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và cách mạng từng miền; vị trí, vai trò của cách mạng từng miền; mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Nam - Bắc. - Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Nhiệm vụ cơ bản là phát triển công nghiệp, nông nghiệp, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh. Đến năm 1964, miền Bắc đã "tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới". Miền Bắc là hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Trong những năm 1964 - 1965, số lượng bộ đội bổ sung cho chiến trường miền Nam tăng hơn 2 lần so với 2 năm trước đó.
* Giai đoạn 1961 - 1965
- Quân dân miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965) - một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn, dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ. Thực chất của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" là "dùng người Việt đánh người Việt", tiến hành dồn dân lập "ấp chiến lược", sử dụng chiến thuật mới "trực thăng vận", "thiết xa vận". - Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, quân dân miền Nam chiến đấu chống Mỹ và Chính quyền Sài Gòn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, đô thị) bằng 3 mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận), giành được nhiều thắng lợi quan trọng.
* Giai đoạn 1961 - 1965
- Trên mặt trận chính trị, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng dâng cao, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của các tín đồ Phật giáo, đội quân tóc dài, học sinh - sinh viên đẩy Chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên. - Trên mặt trận chống bình định, ở nông thôn, phong trào chống phá bình định ngày càng phát triển đã từng bước làm phá sản quốc sách "ấp chiến lược" của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn. - Trên mặt trận quân sự, quân và dân miền Nam giành thắng lợi ở trận Ấp Bắc (Mỹ Tho, tháng 01 - 1963) bước đầu đánh bại chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận", mở ra khả năng đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Từ đây, phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công" dấy lên khắp miền Nam. Trong những năm 1964 - 1965, quân dân ta giành những thắng lợi ở Bình Giã (Bà Rịa), An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước),... gây cho quân đội Sài Gòn những thiệt hại nặng, có nguy cơ tan rã, làm phá sản hoàn toàn chiến lược "Chiến tranh đặc biệt".
c) Giai đoạn 1965 - 1968
c) Giai đoạn 1965 - 1968.
- Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Mỹ, quân đội một số nước đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đê thực hiện chiến lược này, quân đội Mỹ mở nhiều cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" vào căn cứ của quân Giải phóng ở miền Nam. - Quân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu, giành những thắng lợi trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao. - Trên mặt trận chính trị, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đấu tranh phá vỡ nhiều "ấp chiến lược" trong vùng nông thôn. Ở thành thị, phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, sinh viên đòi Mỹ rút về nước, đòi tự do dân chủ phát triển mạnh mẽ. Vùng giải phóng được mở rộng, vị thế và uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
* Giai đoạn 1965 - 1968
- Trên mặt trận quân sự, quân dân miền Nam anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam, tháng 5 - 1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi, tháng 8 - 1965), mở ra khả năng đánh thắng Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Tiếp đó, quân dân miền Nam đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) của Mỹ. - Đầu năm 1968, quân dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là các đồ thị, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mỹ phải "phi Mỹ hoá" cuộc chiến tranh (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ”). - Ở miền Bắc, Mỹ dựng lên sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá hậu phương miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam, uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
* Giai đoạn 1965 - 1968
- Quân dân miền Bắc kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và thực hiện nghĩa vụ hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. - Thắng lợi của quân và dân hai miền Nam - Bắc trên các mặt trận đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pa-ri (tháng 5 - 1968) để giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Ảnh
Ảnh
d) Giai đoạn 1969 - 1973
d) Giai đoạn 1969 - 1973.
- Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", Mỹ chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam (1969 - 1973) và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" là hình thức chiến tranh thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy. Mỹ tăng cường lực lượng cho quân đội Sài Gòn thực hiện chính sách bình định nông thôn ở miền Nam; đồng thời, hỗ trợ quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân sang Cam-pu-chia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971). Năm 1972, Mỹ còn thực hiện thủ đoạn ngoại giao lợi dụng mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc, thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. - Quân và dân trên cả hai miền Nam - Bắc chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và giành nhiều thắng lợi lớn trên các mặt trận.
* Giai đoạn 1969 - 1973
- Trên mặt trận chính trị, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập (06 - 6 - 1969), là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ; Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương họp (4 - 1970), biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mỹ. - Trên mặt trận quân sự, quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp cùng với quân và dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược của 10 vạn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn sang Cam-pu-chia (1970); phối hợp với quân và dân Lào đập tan cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của 4,5 vạn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, buộc Mỹ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 - Nam Lào (1971); từ đó, giữ vững hành lang chi viện từ hậu phương miền Bắc cho các chiến trường của ba nước Đông Dương. - Xuân - Hè 1972, quân và dân miền Nam mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào ba phòng tuyến mạnh nhất của quân đội Sài Gòn ở Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mỹ tuyên bố Mỹ hoá" trở lại (tức thừa nhân sự thất bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh").
* Giai đoạn 1969 - 1973
- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện miền Nam. Tháng 4 -1972, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Quân dân miền Bắc chủ động, kịp thời đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. - Cuối năm 1972, Mỹ tiến hành cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, trong 12 ngày đêm (từ ngày 18 đến ngày 29 - 12 - 1972) nhằm giành một thắng lợi quân sự quyết định buộc ta kí hiệp định có lợi cho Mỹ. Quân và dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mỹ những đòn đích đáng, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng đường không bằng B52 của Mỹ; thắng lợi này được coi như trận "Điện Biên Phủ trên không". Trận "Điện Biên Phủ trên không" là thắng lợi quyết định của ta, buộc Mỹ phải ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc và kí Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. - Trên mặt trận ngoại giao, cuộc đàm phán bốn bên ở Pa-ri từ tháng 01 - 1969 đến đầu năm 1973 đã kết thúc thắng lợi. Ngày 27 - 01 - 1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ki kết, mở ra thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
e) Giai đoạn 1973 - 1975
e) Giai đoạn 1973 - 1975.
- Với Hiệp định Pa-ri, Mỹ buộc phải rút quân về nước; so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng. - Miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam. Trong 2 năm (1973 - 1974), gần 20 vạn bộ đội cùng hàng vạn tấn vật chất từ miền Bắc được tăng cường cho miền Nam, đáp ứng kịp thời nhu cầu của chiến trường. - Ở miền Nam, Mỹ giữ lại hàng vạn cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ cho Chính quyển Sài Gòn tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", liên tiếp mở các cuộc hành quân "bình định - lấn chiếm" vùng giải phóng của ta. Thực chất là tiếp tục chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", phá hoại Hiệp định Pa-ri. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng Lao động Việt Nam, từ cuối năm 1973, quân dân miền Nam kiên quyết đấu tranh chống bình định lấn chiếm, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, quân dân miền Nam mở chiến dịch Đường 14- Phước Long. Chiến thắng Phước Long (1 - 1975) cho thấy sự lớn mạnh và khả năng thắng lớn của quân Giải phóng, sự suy yếu và bất lực của quân đội Sài Gòn, khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự của Mỹ là rất hạn chế.
* Giai đoạn 1973 - 1975
- Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình so sánh lực lượng thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị để ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975, 1976 và chỉ rõ "nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. - Từ tháng 3 - 1975, quân dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 chiến dịch lớn: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh. - Chiến dịch Tây Nguyên 04 -3 đến 24 - 3 - 1975: Quân Giải phóng giành thắng lợi trong trận then chốt Buôn Ma Thuột, khiến hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên sụp đổ. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ tiến công chiến lược sang tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
* Giai đoạn 1973 - 1975
- Chiến dịch Huế - Đà Nẵng 21 -3 đến 29 - 3 - 1975: Quân Giải phóng tiến công, giải phóng thành phố Huế, toàn tỉnh Thừa Thiên và thành phố Đà Nẵng, mở ra khả năng hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975). - Chiến dịch Huế - Đà Nẵng 21 -3 đến 29 - 3 - 1975: Quân Giải phóng tiến công, giải phóng thành phố Huế, toàn tỉnh Thừa Thiên và thành phố Đà Nẵng, mở ra khả năng hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975). - Đến ngày 02 -5 - 1975 toàn bộ miền Nam cùng các đảo và quần đảo hoàn toàn được giải phóng.
3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử
a) Nguyên nhân thắng lợi
a) Nguyên nhân thắng lợi.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ sáng tạo, tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhờ truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, đoàn kết một lòng của nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc. - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là do có hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc kháng chiến ở cả hai miền; quân đội nhân dân Việt Nam trưởng thành và phát huy nghệ thuật quân sự của cha ông trong kháng chiến cứu nước. - Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có sự phối hợp của nhân dân Lào, nhân dân Cam-pu-chia; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân tiến bộ trên thế giới.
b) Ý nghĩa lịch sử
b) Ý nghĩa lịch sử.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, thống nhất đất nước. - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã mở ra kỉ nguyên mới của Việt Nam: kỉ nguyên cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. - Thắng lợi của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mỹ và thế giới, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh.
4. Luyện tập và Vận dụng
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 1. Từ trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, tổ chức đoàn thể chính trị nào sau đây đã ra đời?
A. Liên minh Nhân dân Việt - Miên - Lào.
B. Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh).
C. Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
D. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 2. Phong trào “Đồng khởi” (1959-1960) ở miền Nam Việt Nam có ý nghĩa nào sau đây?
A. Giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam.
B. Tiếp tục giữ vững và phát huy thế chủ động tiến công của cách mạng miền Nam.
C. Bắt đầu chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ sang giai đoạn “vừa đánh vừa đàm”.
D. Buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Vận dụng
Câu hỏi: Sưu tầm tài liệu, giới thiệu với các bạn trong lớp về những tấm gương hi sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Kế tên những việc em đã tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa ở địa phương.
(*) Tham khảo: tấm gương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi. - Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi sinh ngày 01 tháng 02 năm 1940 tại làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 1954, khi tròn 14 tuổi, anh theo người thân vào Sài Gòn với mong muốn tìm việc làm. Khi đến Sài Gòn, chưa có nghề nghiệp, anh tạm thời đạp xích lô đưa đón khách cả ngày lẫn đêm. Sau đó anh học ngành điện và làm việc tại nhà máy điện Chợ Quán. Trong thời gian làm việc tại đây, hằng ngày chứng kiến bao tội ác của bọn Mỹ - Ngụy gây ra cho nhân dân, anh uất hận và ngày càng căm thù giặc sâu sắc. Từ đây anh đã chọn đường đi cho mình là tham gia cách mạng và trở thành chiến sĩ biệt động, thuộc đại đội quyết tử cánh Tây Nam Sài Gòn, thuộc quân khu Sài Gòn - Gia Định.
* vận dụng
(*) Tham khảo: Những việc em đã tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa ở địa phương. - Thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, thương binh, bệnh binh và Mẹ Việt Nam Anh hùng. - Dọn dẹp các nghĩa trang liệt sỹ; thắp nến tri ân tại các đài tưởng niệm. - Tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ để tuyên truyền và nâng cao nhận thức về truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. - Hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn.
5. Dặn dò và Cảm ơn
Dặn dò
Ảnh
Dặn dò:
Xem lại bài hôm nay đã học.
Làm đầy đủ bài tập trong sách.
Chuẩn bị cho tiết học tiếp theo.
Cảm ơn
Ảnh
Ảnh
 
↓ CHÚ Ý: Bài giảng này được nén lại dưới dạng ZIP và có thể chứa nhiều file. Hệ thống chỉ hiển thị 1 file trong số đó, đề nghị các thầy cô KIỂM TRA KỸ TRƯỚC KHI NHẬN XÉT ↓
Các ý kiến mới nhất