Chào mừng quý vị đến với website của ...
Quý vị chưa đăng nhập hoặc chưa đăng ký làm thành viên, vì vậy chưa thể tải được các tài liệu của Thư viện về máy tính của mình.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
Nếu chưa đăng ký, hãy nhấn vào chữ ĐK thành viên ở phía bên trái, hoặc xem phim hướng dẫn tại đây
Nếu đã đăng ký rồi, quý vị có thể đăng nhập ở ngay phía bên trái.
CTST - Bài 15. Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc
(Tài liệu chưa được thẩm định)
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 16h:03' 28-03-2025
Dung lượng: 1.2 MB
Số lượt tải: 0
Nguồn: Bạch Kim
Người gửi: Ngô Văn Chinh (trang riêng)
Ngày gửi: 16h:03' 28-03-2025
Dung lượng: 1.2 MB
Số lượt tải: 0
Số lượt thích:
0 người
Bài 15. Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc
Ảnh
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 15. HỒ CHÍ MINH – ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Hành trình tìm đường cứu nước.
* Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- Năm 1911, từ Sài Gòn (Việt Nam), Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) làm phụ bếp trên con tàu La-tu-sơ Tơ-rê-vin, bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. - Trên hành trình đó, Nguyễn Tất Thành đi qua các châu lục, nhiều quốc gia; vừa lao động, vừa tìm hiểu, học hỏi, Người thấy rõ: "Ở đâu chủ nghĩa thực dân đế quốc cũng tàn bạo, ở đâu những người lao động cũng bị áp bức cùng cực". - Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại Pháp, tham gia Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. - Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc-xai đòi quyền lợi cho người dân An Nam. - Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin (in trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp), tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
* Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- Nguyễn Ái Quốc hướng con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga - giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội để "dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật". - Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". - Tại Đại hội lần thứ XVIII (tháng 12- 1920) của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên và là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. - Với việc tìm ra con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần trực tiếp vào việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
2. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
a) Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một Đảng cách mạng "để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi". - Tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pháp (năm 1921), ra báo tiếng Pháp Người cùng khổ (Le Paria), viết bài trên báo Nhân đạo (Pháp), viết Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925),... Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khơi dậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, vạch trần bản chất và tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng và tuyên truyền con đường cách mạng vô sản. - Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, Đại hội Quốc tế Cộng sản (năm 1924), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính quyền Xô viết, viết bài cho Tạp chí Cộng sản, Thư tín quốc tế (1923 - 1924),... Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng nhiều vấn đề lí luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hình thành những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
* Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (năm 1925), ra báo Thanh niên (số báo đầu tiên ra ngày 21- 6- 1925), mở các lớp đào tạo huấn luyện cán bộ cách mạng, trang bị lí luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên; các bài giảng tại các lớp đào tạo cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Kách mệnh, xuất bản năm 1927. - Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thúc đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng (tháng 6 - 1929), An Nam Cộng sản đảng (tháng 8 - 1929), Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 9-1929).
b) Triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt nam
- Các tổ chức cộng sản ra đời đã thúc đẩy phong trào cách mạng trên cả nước phát triển, nhưng các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng với nhau làm cho cách mạng Việt Nam có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Vì vậy, cần phải hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng cộng sản. - Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc về Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Hội nghị thảo luận và thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vẫn tắt của Đảng).
c) Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. - Sự ra đời của Đảng là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam: chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối, giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam; mở ra thời kì cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Sự ra đời của Đảng cũng là sự chuẩn bị đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
3. Chuẩn bị và lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945
a) Triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, thành lập Mặt trận Việt Minh
- Trước yêu cầu cấp bách ở trong nước đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngày 28 - 01 - 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. - Tháng 5 - 1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ các nước ở Đông Dương. Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. - Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) được thành lập (ngày 19- 5 - 1941), nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới "cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do". - Mặt trận Việt Minh đã chuẩn bị trực tiếp về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa,... Tổ chức Việt Minh nhanh chóng phát triển khắp nơi, trở thành khối thống nhất sức mạnh quật khởi của dân tộc, đóng vai trò nòng cốt, có ý nghĩa then chốt, quyết định cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
b) Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
- Để tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trạng, trên cơ sở các đội du kích và Cứu quốc quân đã phát triển, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nhằm mục đích "lập ra đội chủ lực". - Ngày 22 - 12 - 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Vừa ra đời, Đội đã đánh thắng hai trận Phay Khắt, Nà Ngần ở Cao Bằng (ngày 25 và 26- 12- 1944).
Ảnh
c) Lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Dự báo đúng tình hình và nắm bắt rõ thời cơ chín muồi, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14 và 15 - 8 - 1945) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa. - Tiếp đó, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Đại hội Quốc dân tại Tân Trào (ngày 16 và 17 -8 - 1945), tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, "hiệu triệu nhân dân toàn quốc" thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh; quyết định Quốc kì và Quốc ca của Việt Nam; thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Người có Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa. - Ngày 28 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cải tổ Uỷ ban Dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời và bắt tay vào soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 02 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước
a) Giai đoạn 1945-1946
- Ngay sau Cách mạng tháng Tám, đất nước trong tình thế "nghìn cân treo sợi tóc",Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời, có hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của tình hình cách mạng Việt Nam. - Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những công việc cấp bách, lãnh đạo Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của nền dân chủ cộng hoà, giải quyết nạn đói, nạn dốt và chống thù trong giặc ngoài. - Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập (tháng 5- 1946) để mở rộng khối đoàn kết toàn dân. - Người chủ động thiết lập mối liên hệ và tranh thủ sự ủng hộ của Liên hợp quốc, các nước Đồng minh về nền độc lập của Việt Nam. - Người khởi xướng và thực hiện sách lược "hòa để tiến" lợi dụng triệt để những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, mở rộng Chính phủ thành Chính phủ liên hiệp, kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ (ngày 06 - 3 - 1946) và bản Tạm ước (ngày 14 - 9- 1946) nhằm tranh thủ thời gian hòa hoãn chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
b) Giai đoạn 1946 - 1954
- Đêm 19- 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. - Người cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. -Tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 02 - 1951). Đây là Đại hội kháng chiến thắng lợi. - Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ từng bước mở rộng hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, các nước láng giềng và bạn bè quốc tế. - Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo nhiều chiến dịch quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp: Việt Bắc thu - đông năm 1947, Biên giới thu - đông năm 1950, cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
c) Giai đoạn 1954 - 1969
- Trong bối cảnh đất nước bị chia cắt thành hai miền, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng". - Tại Thủ đô Hà Nội, Người chủ trì Đại hội đại biểu lần thứ III (tháng 9 -1960) đề ra đường lối "Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước". - Người thay mặt Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đi thăm và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước anh em, bạn bè, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
+ Giai đoạn 1954 - 1969
- Người cùng Trung ương Đảng hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng hai miền Nam - Bắc; cùng Chính phủ tổ chức điều hành cuộc kháng chiến vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, xây dựng hậu phương miền Bắc, tăng cường sức mạnh cho tiền tuyến miền Nam. - Người nêu cao chân lí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và ý chí quyết tâm cho toàn dân tộc: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi". Người viết thư, gửi điện thăm hỏi, cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, đọc thơ chúc tết đồng bào ta ở trong và ngoài nước mỗi dịp xuân về,...
5. Luyện tập và Vận dụng
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 1. Vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trong những ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là?
A. Triệu tập Hội nghị toàn quốc tháng 8 năm 1945, thông qua kế hoạch khởi nghĩa.
B. Triệu tập Hội nghị lần thứ 8 (4/1941), thành lập Việt Minh.
C. Triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930, thông qua Cương lĩnh chính trị.
D. Triệu tập Hội nghị tháng 11/1939, thông qua các chính sách của Việt Minh.
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 2. Một trong những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954-1969 là
A. đọc thơ, chúc tết đồng bào ta mỗi dịp Xuân về.
B. tăng cường hợp tác với các nước nhờ đánh Mỹ.
C. kêu gọi nhân dân quyên góp thóc gạo đánh Mỹ.
D. mở các lớp xóa mù để diệt giặc dốt cho nhân dân.
Vận dụng
Câu hỏi: Em hãy đọc Tư liệu 8 và viết một bài cảm nhận về Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 nhân dịp kỉ niệm ngày sinh của Người.
(*) Tham khảo: Năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân đánh phá hòng đưa miền Bắc quay trở lại thời kỳ đồ đá. Mỹ đã sử dụng 15 triệu tấn bom đạn các loại ném xuống Việt Nam, rải hàng chục triệu lít chất độc da cam/dioxin xuống miền Nam; ở miền Bắc, bình quân mỗi người phải chịu 45,5kg bom đạn, tính ra 1km2 chịu 6 tấn bom đạn. Một lần nữa, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do...".
* vận dụng
Nội dung của Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1966 gồm 3 phần rõ ràng, khúc chiết: Đã vạch trần âm mưu thâm độc và tội ác vô cùng dã man của đế quốc Mỹ/ Khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam/Chỉ rõ cho toàn thế giới thấy rằng: nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình. Lời kêu gọi đầy sức thuyết phục của Bác đã chứng minh rằng kẻ thù dù có hung bạo đến đâu, dù có lắm súng nhiều tiền đến đâu thì cũng không thể thắng được Nhân dân Việt Nam: cái chính nghĩa phải thắng cái phi nghĩa; cái văn minh phải thắng bạo tàn; cái thiện phải thắng cái ác. Hoà bình là niềm tin và khát khao của nhân loại, nó không phải chỉ giành cho một dân tộc, một quốc gia mà là của cả loài người. Nhưng đó phải là hoà bình chân chính, hoà bình trong độc lập, tự do như chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong lời kêu gọi: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lời của Bác đã thực sự trở thành lời hiệu triệu thiêng liêng, quy tụ, đoàn kết, thôi thúc hàng triệu con tim, khối óc đồng bào, chiến sĩ đồng lòng hăng hái chống Mỹ, cứu nước, Người nói:"...Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"
6. Dặn dò và Cảm ơn
Dặn dò
Ảnh
Dặn dò:
Xem lại bài hôm nay đã được học.
Làm đầy đủ bài tập trong sách.
Chuẩn bị trước cho bài học tiếp theo.
Cảm ơn
Ảnh
Ảnh
Trang bìa
Trang bìa
Ảnh
BÀI 15. HỒ CHÍ MINH – ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Hành trình tìm đường cứu nước.
* Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- Năm 1911, từ Sài Gòn (Việt Nam), Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) làm phụ bếp trên con tàu La-tu-sơ Tơ-rê-vin, bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. - Trên hành trình đó, Nguyễn Tất Thành đi qua các châu lục, nhiều quốc gia; vừa lao động, vừa tìm hiểu, học hỏi, Người thấy rõ: "Ở đâu chủ nghĩa thực dân đế quốc cũng tàn bạo, ở đâu những người lao động cũng bị áp bức cùng cực". - Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại Pháp, tham gia Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. - Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc-xai đòi quyền lợi cho người dân An Nam. - Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin (in trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp), tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
* Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- Nguyễn Ái Quốc hướng con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga - giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội để "dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật". - Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". - Tại Đại hội lần thứ XVIII (tháng 12- 1920) của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên và là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. - Với việc tìm ra con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần trực tiếp vào việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
2. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
a) Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một Đảng cách mạng "để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi". - Tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pháp (năm 1921), ra báo tiếng Pháp Người cùng khổ (Le Paria), viết bài trên báo Nhân đạo (Pháp), viết Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925),... Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khơi dậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, vạch trần bản chất và tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng và tuyên truyền con đường cách mạng vô sản. - Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, Đại hội Quốc tế Cộng sản (năm 1924), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính quyền Xô viết, viết bài cho Tạp chí Cộng sản, Thư tín quốc tế (1923 - 1924),... Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng nhiều vấn đề lí luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hình thành những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
* Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (năm 1925), ra báo Thanh niên (số báo đầu tiên ra ngày 21- 6- 1925), mở các lớp đào tạo huấn luyện cán bộ cách mạng, trang bị lí luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên; các bài giảng tại các lớp đào tạo cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Kách mệnh, xuất bản năm 1927. - Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thúc đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng (tháng 6 - 1929), An Nam Cộng sản đảng (tháng 8 - 1929), Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 9-1929).
b) Triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt nam
- Các tổ chức cộng sản ra đời đã thúc đẩy phong trào cách mạng trên cả nước phát triển, nhưng các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng với nhau làm cho cách mạng Việt Nam có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Vì vậy, cần phải hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng cộng sản. - Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc về Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Hội nghị thảo luận và thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vẫn tắt của Đảng).
c) Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. - Sự ra đời của Đảng là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam: chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối, giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam; mở ra thời kì cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Sự ra đời của Đảng cũng là sự chuẩn bị đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
3. Chuẩn bị và lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945
a) Triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, thành lập Mặt trận Việt Minh
- Trước yêu cầu cấp bách ở trong nước đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngày 28 - 01 - 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. - Tháng 5 - 1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ các nước ở Đông Dương. Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. - Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) được thành lập (ngày 19- 5 - 1941), nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới "cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do". - Mặt trận Việt Minh đã chuẩn bị trực tiếp về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa,... Tổ chức Việt Minh nhanh chóng phát triển khắp nơi, trở thành khối thống nhất sức mạnh quật khởi của dân tộc, đóng vai trò nòng cốt, có ý nghĩa then chốt, quyết định cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
b) Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
- Để tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trạng, trên cơ sở các đội du kích và Cứu quốc quân đã phát triển, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nhằm mục đích "lập ra đội chủ lực". - Ngày 22 - 12 - 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Vừa ra đời, Đội đã đánh thắng hai trận Phay Khắt, Nà Ngần ở Cao Bằng (ngày 25 và 26- 12- 1944).
Ảnh
c) Lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Dự báo đúng tình hình và nắm bắt rõ thời cơ chín muồi, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14 và 15 - 8 - 1945) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa. - Tiếp đó, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Đại hội Quốc dân tại Tân Trào (ngày 16 và 17 -8 - 1945), tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, "hiệu triệu nhân dân toàn quốc" thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh; quyết định Quốc kì và Quốc ca của Việt Nam; thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Người có Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa. - Ngày 28 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cải tổ Uỷ ban Dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời và bắt tay vào soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 02 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước
a) Giai đoạn 1945-1946
- Ngay sau Cách mạng tháng Tám, đất nước trong tình thế "nghìn cân treo sợi tóc",Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời, có hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của tình hình cách mạng Việt Nam. - Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những công việc cấp bách, lãnh đạo Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của nền dân chủ cộng hoà, giải quyết nạn đói, nạn dốt và chống thù trong giặc ngoài. - Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập (tháng 5- 1946) để mở rộng khối đoàn kết toàn dân. - Người chủ động thiết lập mối liên hệ và tranh thủ sự ủng hộ của Liên hợp quốc, các nước Đồng minh về nền độc lập của Việt Nam. - Người khởi xướng và thực hiện sách lược "hòa để tiến" lợi dụng triệt để những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, mở rộng Chính phủ thành Chính phủ liên hiệp, kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ (ngày 06 - 3 - 1946) và bản Tạm ước (ngày 14 - 9- 1946) nhằm tranh thủ thời gian hòa hoãn chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
b) Giai đoạn 1946 - 1954
- Đêm 19- 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. - Người cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. -Tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 02 - 1951). Đây là Đại hội kháng chiến thắng lợi. - Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ từng bước mở rộng hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, các nước láng giềng và bạn bè quốc tế. - Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo nhiều chiến dịch quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp: Việt Bắc thu - đông năm 1947, Biên giới thu - đông năm 1950, cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
c) Giai đoạn 1954 - 1969
- Trong bối cảnh đất nước bị chia cắt thành hai miền, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng". - Tại Thủ đô Hà Nội, Người chủ trì Đại hội đại biểu lần thứ III (tháng 9 -1960) đề ra đường lối "Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước". - Người thay mặt Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đi thăm và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước anh em, bạn bè, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
+ Giai đoạn 1954 - 1969
- Người cùng Trung ương Đảng hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng hai miền Nam - Bắc; cùng Chính phủ tổ chức điều hành cuộc kháng chiến vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, xây dựng hậu phương miền Bắc, tăng cường sức mạnh cho tiền tuyến miền Nam. - Người nêu cao chân lí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và ý chí quyết tâm cho toàn dân tộc: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi". Người viết thư, gửi điện thăm hỏi, cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, đọc thơ chúc tết đồng bào ta ở trong và ngoài nước mỗi dịp xuân về,...
5. Luyện tập và Vận dụng
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 1. Vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trong những ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là?
A. Triệu tập Hội nghị toàn quốc tháng 8 năm 1945, thông qua kế hoạch khởi nghĩa.
B. Triệu tập Hội nghị lần thứ 8 (4/1941), thành lập Việt Minh.
C. Triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930, thông qua Cương lĩnh chính trị.
D. Triệu tập Hội nghị tháng 11/1939, thông qua các chính sách của Việt Minh.
Luyện tập
Bài tập trắc nghiệm
Câu 2. Một trong những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954-1969 là
A. đọc thơ, chúc tết đồng bào ta mỗi dịp Xuân về.
B. tăng cường hợp tác với các nước nhờ đánh Mỹ.
C. kêu gọi nhân dân quyên góp thóc gạo đánh Mỹ.
D. mở các lớp xóa mù để diệt giặc dốt cho nhân dân.
Vận dụng
Câu hỏi: Em hãy đọc Tư liệu 8 và viết một bài cảm nhận về Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 nhân dịp kỉ niệm ngày sinh của Người.
(*) Tham khảo: Năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân đánh phá hòng đưa miền Bắc quay trở lại thời kỳ đồ đá. Mỹ đã sử dụng 15 triệu tấn bom đạn các loại ném xuống Việt Nam, rải hàng chục triệu lít chất độc da cam/dioxin xuống miền Nam; ở miền Bắc, bình quân mỗi người phải chịu 45,5kg bom đạn, tính ra 1km2 chịu 6 tấn bom đạn. Một lần nữa, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do...".
* vận dụng
Nội dung của Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1966 gồm 3 phần rõ ràng, khúc chiết: Đã vạch trần âm mưu thâm độc và tội ác vô cùng dã man của đế quốc Mỹ/ Khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam/Chỉ rõ cho toàn thế giới thấy rằng: nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình. Lời kêu gọi đầy sức thuyết phục của Bác đã chứng minh rằng kẻ thù dù có hung bạo đến đâu, dù có lắm súng nhiều tiền đến đâu thì cũng không thể thắng được Nhân dân Việt Nam: cái chính nghĩa phải thắng cái phi nghĩa; cái văn minh phải thắng bạo tàn; cái thiện phải thắng cái ác. Hoà bình là niềm tin và khát khao của nhân loại, nó không phải chỉ giành cho một dân tộc, một quốc gia mà là của cả loài người. Nhưng đó phải là hoà bình chân chính, hoà bình trong độc lập, tự do như chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong lời kêu gọi: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lời của Bác đã thực sự trở thành lời hiệu triệu thiêng liêng, quy tụ, đoàn kết, thôi thúc hàng triệu con tim, khối óc đồng bào, chiến sĩ đồng lòng hăng hái chống Mỹ, cứu nước, Người nói:"...Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"
6. Dặn dò và Cảm ơn
Dặn dò
Ảnh
Dặn dò:
Xem lại bài hôm nay đã được học.
Làm đầy đủ bài tập trong sách.
Chuẩn bị trước cho bài học tiếp theo.
Cảm ơn
Ảnh
 
↓ CHÚ Ý: Bài giảng này được nén lại dưới dạng ZIP và có thể chứa nhiều file. Hệ thống chỉ hiển thị 1 file trong số đó, đề nghị các thầy cô KIỂM TRA KỸ TRƯỚC KHI NHẬN XÉT ↓
Các ý kiến mới nhất